Ngày nay
chúng ta khó có thể tìm được hình ảnh người con gái của những năm cuối thế kỷ
XIX ở Hà Nội. Có chăng chỉ là những hình ảnh được dựng lại trên sân khấu hay
phim ảnh.
Hình ảnh người
phụ nữ với áo tứ thân, mớ ba, mớ bảy ở những vùng nông thôn Bắc Bộ đã đi vào
thơ ca và trở thành biểu tượng cao đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa.
|
Cô gái Bắc Kỳ với áo tứ thân, nón quai thao, guốc rễ tre, đầu vấn thả đuôi gà. |
Chiếc áo tứ
thân may bằng bốn khổ vải hẹp, với hai vạt trước không cài khuy mà chỉ vắt chéo
và được giữ lại bằng cái thắt lưng quanh bụng, là hình ảnh phổ biến thời đó.
Hai vạt áo bao giờ cũng để hở một phần ngực, được che bằng chiếc yếm, thường
may bằng lụa trắng hoặc để màu ngà tự nhiên của sợi tơ. Người đỏm dáng hơn thì
những qua nước củ nâu để có màu đỏ thẫm, nhưng nếu nhuộm kỹ thì sẽ có màu nâu
thích hợp với người lao động.
Ngày nay các
cụ, các bà không còn vận trên mình những bộ trang phục cổ đó nữa, nhưng tại nhiều
làng cổ, những bộ trang phục xưa được nhuộm thủ công vẫn được các cụ bà lưu giữ
cẩn thận. Đây là những di sản quý cần được bảo tồn để giúp thế hệ trẻ có cái
nhìn toàn diện về làng quê Việt Nam, về người phụ nữ nông dân tảo tần, chịu
thương chịu khó.
Còn chiếc
nón rộng vành đã được một bác sĩ người Pháp mô tả là “rất đồ sộ, có hình một
cái nắp hộp tròn, đường kính rộng khoảng sáu mươi hay bẩy mươi phân. Hai bên buộc
chừng sáu hay bẩy dây nhỏ bằng lụa, tròn như cái ống lông gà, phía giữa thõng
vòng xuống trước ngực. chỗ quai buộc vào nón và có hai tua bằng lụa đen hay lụa
mộc rũ xuống như hai cái tai lớn.
Hình ảnh
tiêu biểu của người phụ nữ Việt với trang phục áo tứ thân đeo yếm, nón quai
thao, tóc vấn quanh đầu, đi chân đất, nhuộm răng đen...
Một số nón
được làm rất nghệ thuật bằng lá cọ chọn lựa kỹ càng, bên trong có một lớp đan bắng
sợi mây chẽ mỏng, giá rất đắt, nhất là khi được trang trí bằng hai cái móc bạc
chạm trổ để buộc cái ngù bằng lụa. Nhiều người còn dán một cái gương tròn nhỏ
dưới đáy nón để soi khi ra phố và liếc nhìn để chữa lại vành khăn. Cái nón là bộ
phận của trang phục, được các bà, các mẹ, các chị chăm sóc rất kỹ càng, còn khi
đi làm thì họ lại dung chiếc nón có kích thước nhỏ hơn.
|
Cô gái Bắc Kỳ thời kỳ 1919 - 1926. |
Còn chiếc
váy thì luôn luôn là màu đen, người lao động thì mặc váy ngắn đến bắp chân, còn
người thành thị thì váy dài đến gót chân, cho nên có nhà thơ đã từng viết “váy
lĩnh cô kia quét sạch hè”.
Chiếc áo dài
để mặc khi ra khỏi nhà, còn trong nhà hay khi làm việc ngoài đồng, với tiết trời
nóng nực thì yếm là thích hợp nhất. Có thể thấy những cô gái Việt xưa ăn mặc có
khi còn phóng khoáng hơn những cô gái trẻ ngày nay.
|
Dải yếm của phụ nữ Việt xưa |
Nhưng dù ở
trong nhà hay đi ra bên ngoài, đầu tóc người phụ nữ bao giờ cũng phải gọn gàng,
không được để tóc xõa tự nhiên. Phụ nữ đất Bắc thường buộc tóc về phía bên
thành cuộn dài, bọc bên ngoài bằng một cái khăn hẹp dài rồi quấn quanh đầu từ
phía trước ra phía sau. Đầu mối còn thừa thì giắt vào phía dưới vành khăn, để
xõa sang bên một túm tóc nhỏ gọi là đuôi gà.
|
Kiểu vấn tóc của phụ nữ xưa |
Tất cả làm
nên văn hóa ăn mặc rất đặc biệt mang đậm sắc thái Á Đông. Trải qua những biến động,
thăng trầm của lịch sử cùng với nó là sự giao lưu, tiếp biến văn hóa làm cho
phương cách ăn mặc của người phụ nữ Việt cũng phôi pha, đổi thay nhiều phù hợp
với sự phát triển của xã hội. Do đó những tà áo tứ thân, những dải yếm đào hay
những chiếc nón quai thao với đôi guốc mộc chỉ còn phẳng phất trong hoài niệm…
Thảo Phương
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét