Ca dao, tục ngữ, kho tàng vǎn học
phong phú, là kiến thức vô giá. Ca dao thể hiện nghệ thuật sống đẹp, phong tục
tập quán, tín ngưỡng.
1. Tết Khai Hạ (Mồng bảy
tháng giêng)
Còn gọi là Tết Đoan Dương cho nên mới có câu thơ:
Người giàu khai hạ, tớ
khai bị
Hết rượu cho nên mới
ngủ khì
Tết khai hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón
một ngày xuân mới. Theo cách bói toán của người xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày
mồng một ứng vào gà, mồng Hai: chó, mồng Ba: lợn, mồng Bốn: dê, mồng Năm: trâu,
mồng Sáu: ngựa, mồng bảy: người, mồng Tám: lúa. Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày
nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc về ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên,
đến ngày mồng bảy thấy trời nắng ráo thì người ta tin rằng cả năm người được mạnh
khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành Mồng bảy hạ cây nêu để “bế
mạc” tết Nguyên Đán thì người ta mở ngày tết khai hạ để mong mỏi một năm dài tốt
lành, vui vẻ.
2. Tết Rằm tháng giêng (Tết
Thượng Nguyên)
“Lễ vật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng”. Đó là
ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới. Đó là tết rằm tháng giêng hay tết Thượng
Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày
vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.
3. Tết Hàn Thực (Mồng ba
tháng ba)
Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc tết này vốn ở Trung Quốc
thời Xuân – Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong
hoạn nạn được người hiền sĩ Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói
quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm trời
nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại về làm vua Tấn. Mọi người có công
giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang
cùng mẹ cày cuốc trong núi Điền Sn. Khi vua Tấn nhớ ra, cho người vào tìm, mời
mãi Giới không chịu rời núi. Vua bèn cho đốt rừng, hy vọng Giới sẽ ra, nhưng Giới
đã cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đền
thờ trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba, ngày giỗ Giới, có nước lại
tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm
trước.
Từ thời Thăng Long Đại Việt, nhân dân ta đã ăn tết này. người
ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít
ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
4. Tiết Thanh Minh (Mồng
chín tháng ba)
Thanh minh trong tiết
tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là
đạp thanh.
Thanh minh có nghĩa trời độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng
nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những người trong dòng họ đã mất. Tết thanh minh là lễ
tảo mộ. Đi thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi về
nhà thắp hương cúng gia tiên.
5. Tết Đoan Ngọ (Mồng năm tháng năm)
Chưa ăn bánh tết Đoan
Dương
Áo bông chẳng dám
khinh thường cởi ra.
Xin kể ra đây mấy
cách phòng bệnh của nhân dân ta: Lấy lá ngón nhuộm các đầu móng tay móng chân
(trừ ngón trỏ), ăn rượu nếp, trứng luộc, cháo chè kê, bánh đa và các loại quả
chua chát. Có nơi người lớn uống rượu xương bồ, trẻ em bôi thuốc hồng hoàng
(vào thóp đầu, ngực và rốn) gọi là để trừ trùng. Một số vùng nông thôn còn lấy
lá ngải cứu kết hình rồng rắn treo ở cửa, lại uống nước các loại lá: ích mẫu,
mâm xôi, cối xay, vối vào giờ ngọ (11-12 giờ trƯa). người mê tín thì kết bùa bằng
hình màu hoa sen, quả khế đeo vào cổ trẻ em. Không ít người lại mang áo vàng đến
xin dấu ấn của Phật, mong ma quỷ bệnh ác đừng quấy rầy.
Ta không mấy ai biết ông Khuất Nguyên và tích đó, nên cứ gọi
tết 5 tháng 5 là tết “giết sâu bọ”, vì như trên đã nói, tiết này là tiết chuyển
mùa nên sâu bọ và bệnh tật hay hoành hành.
Theo lịch cũ thì ngày 5 tháng 5 là ngày hết xuân sang hạ.
Đây là khi thời tiết chuyển mùa nên hay có bệnh thời khí, nhưng cũng là ngày giỗ
của Khuất Nguyên – Một thi sĩ Trung Hoa cổ đại, là một trung thần. Khuất Nguyên
khi còn làm quan đã can ngăn Hoài Vương . Hoài Vương không nghe, ông phẫn chí
gieo mình xuống dòng sông Mịch La tự vẫn. Dân Trung Quốc làm giỗ ông vào ngày 5
tháng 5 và cúng bằng cách ném các loại bánh bao, bánh ngọt cuốn chỉ ngũ sắc ở
ngoài (có ý làm cá khỏi đớp mất) xuống sông.
Tết Đoan Ngọ ở ta vừa có nghĩa là tết giữa năm, phòng bệnh
trừ tà vừa là tết tưởng nhớ tổ tiên.
6. Tết Trung Nguyên (Rằm tháng bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm
sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt
xương khô
Tết rằm tháng bảy có tên khác là tết Trung Nguyên , người
xưa gọi là ngày “xá tội vong nhân”. Do đó vào ngày ấy, tại các chùa thờ phật
thường làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia
tiên, đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã để người ở âm ty dùng.
7. Tết Trung Thu (Rằm tháng tám)
Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà, tửu,
ngâm thơ, ngắm trăng gọi là “thưởng nguyệt” .Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có
chiếc bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác (có khi
còn được tỉa thành hoa và các hình con giống rất đẹp). Đáng chú ý là các đồ
chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ,
đèn ông sao …. và tối đến trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sƯ tử, xem
đèn kéo quân.
8. Tết
Trùng Cửu (Mồng chín tháng chín)
Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đời vào thời kỳ thịnh
hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng: có người tên là Hoàn cảnh muốn học được
phép tiên. Học mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy may mỗi người một cái
túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng chín
tháng chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. người chết đuối rất nhiều, còn gia đình
Hoàn cảnh thì vẹn nguyên.
Thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức
leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ
chức tết trùng cửu.
9. Tết Trùng Thập (Mồng mười
tháng mời)
Tết này các ông thày thuốc thường làm rất lớn. Theo sách cổ
Dược lễ thì vào mồng mười tháng mười, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương,
mới kết được sắc tứ thời (xuân-hạ-thu-đông) và dùng thật tốt. ở nông thôn gọi
là tết cơm mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng cúng tổ tiên mừng
được mùa lúa.
10. Tết ông Táo (Tết hai
mươi ba tháng chạp)
Tương truyền là ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu trời
để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ngọc Hoàng. Chuyện cũ kể rằng:
Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy được chồng
giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn xin. người vợ nhận ra người
ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm bèn đem cho rất nhiều gạo
thóc, tiền bạc. người chồng mới nghi ngờ vợ, vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết.
Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết theo. Ân hận và đau khổ,
người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết nốt. Thượng đế nghe chuyện thương
cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ làm vua bếp.
Thế gian một vợ một
chồng
Chẳng như vua bếp hai
ông một bà.
Theo tích ấy, vào ngày 23 tháng chạp, người ta mua hai mũ
đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu trời.
Cá chép thường là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con … Và bây giờ mỗi khi vẽ
ông Táo, người ta thường vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại
không có …. quần.
Bởi vậy mới có bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo
chơi xuân
Đội mũ mang hia chẳng
mặc quần
Thượng đế hỏi rằng
sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó
duy tân.
Trên đây là điểm qua mười một lễ tết trong năm. Riêng Tết
Nguyên Đán còn gọi là Tết Cả vì to hơn thế.
Các lễ tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhiều hình
thức nội dung khác nhau. Còn lễ tết Nguyên đán thì khắp nơi trong cả nước , từ
đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đều
tổ chức gần giống nhau trong mấy ngày. Chỉ khác nhau ở mức sang hèn của từng
gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng vùng, miền.
Tại Châu á, vùng bắc ấn Độ ăn tết vào tháng tư, Nam ấn Độ từ
tháng ba. ở Lào, năm mới bắt đầu trung tuần tháng tư dương lịch. ở Campuchia,
năm mới vào tháng tư, có nơi xê dịch qua tháng ba hay tháng năm. Đặc biệt giao
thừa từ năm này qua năm khác, lại vào giữa trưa. Các nước này thường ăn tết
theo Phật lịch vào tháng sinh hay ngày xuất gia của Phật tổ Thích ca. Chỉ có Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên (những dân tộc ăn cơm bằng đũa) đón tết
Nguyên Đán đúng vào ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Riêng nước ta, thì tết
Nguyên đán rất phù hợp với đời sống của người nông dân. Vì đó là những ngày mùa
màng đã kết thúc. Mọi người được rãnh rỗi, nghỉ ngơi, vui chơi và thăm viếng lẫn
nhau, cũng là việc rất cần sau một năm dài lao động cần cù vất vả.
“Tháng giêng ăn tết ở nhà”
Tết nguyên đán trước hết là tết của gia đình. Theo phong tục
cổ truyền thì ba ngày tết Việt Nam có ba cuộc gặp gỡ hết sức thiêng liêng và
quan trọng ngay trong một nhà. Trước hết là sự gặp gỡ của các vị thần linh. Thần
linh ở đây không cao xa, không huyền bí như ở các miếu, các am. Mà toàn các vị
thần trong nhà gọi là gia thần. Gia thần gồm có ba vị:
Thứ nhất là tiên sư hay nghệ sư tức vị tổ đầu tiên đã dạy nghề
mình đang làm. Nghề nào có tổ ấy, sĩ, nông ,công, thương đều có tổ cả. Kể cả
ngành hát tuồng, hát chèo cũng có tổ sư …
Thứ hai là thổ công, vị thần giữ đất, trông coi nơi nhà mình
đang ở.
Thứ ba là táo quân hay vua bếp đã chăm sóc, giúp đỡ việc nấu
ăn cho mọi người trong gia đình. Táo quân lên chầu trời vào ngày hai ba tháng
chạp. Nhưng tối ba mươi cũng về vui vầy với các gia thần.
Xem ra mỗi người đều cần có nghề nghiệp, cần ăn, mặc, và ở
thì ba vị gia thần trên đã đảm nhiệm cho tất cả.
Cuộc gặp gỡ thứ hai là của tổ tiên, ông, bà … đã khuất (gia
tiên)
Tết đến hương hồn họ cũng về sum họp với con cháu trong gia
đình (theo sự tưởng tượng phong phú và tình cảm của người đời).
Cuộc gặp gỡ thứ ba là của những người trong nhà. Tức là của
một cuộc họp mặt gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ nghề
gì, hàng năm mỗi khi tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở về nhà sum họp
gia đình trong ba ngày tết. Mấy ngày tết tiết trời thường lạnh, đêm lại rất tối
nên chẳng ai muốn ra ngoài mà thích nhất là quây quần dưới bóng hương hoa của
gia thần tiên chuyện vãn với người ruột thịt trong gia đình. Qua ngày Tết Việt
Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.
Tổng hợp
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét