Người Nùng
là một bộ phận dân tộc sống ở nhiều tỉnh Miền núi phía Bắc. Người Nùng có nhiều
phân hệ với các tên gọi như: Nùng Inh, Nùng Phàn Sình (sống nhiều ở tỉnh Lạng
Sơn) và Nùng Chao... Tên gọi này xuất phát từ những miền đất mà người Nùng di
cư đi.
Riêng ở tỉnh
Hà Giang, người Nùng cư trú tại nhiều địa phương trong tỉnh nhưng hai huyện miền
núi phía Tây Xín Mần và Hoàng Su Phì là nơi cư trú đông nhất của người Nùng.
Người Nùng sống ở đây thành cộng đồng, lương thực chủ yếu là gạo nên từ lâu họ
đã biết dựa vào các triền dốc, làm ruộng bậc thang để cấy lúa. Âm ngữ của người
Nùng tại đây gần giống với tiếng dân tộc Tày nhưng hơi nặng hơn. Vì vậy nhiều
nơi ở đây còn gọi người Nùng là người Tày đen.
Người Nùng
có nhiều tập tục đáng quý, trong đó họ có tập tục đề cao phụ nữ. Vai trò của
người phụ nữ và sự tôn trọng họ đã được người Nùng để ý đến từ xa xưa.
Người Nùng
không thuộc chế độ mẫu hệ, thế nhưng trong hôn nhân người phụ nữ được quyền định
đoạt nhiều thứ. Trong hôn nhân, người phụ nữ dân tộc Nùng được bình quyền và tự
định đoạt duyên phận mình. Trước, khi chưa có giao lưu với các nền văn hóa của
dân tộc khác, phụ nữ người Nùng được quyền thách cưới, tài sản tiền bạc mà phụ
nữ Nùng thách cũng không đem sử dụng mà để lại cho cha mẹ mình, tựa như một sự
trả ơn với bậc sinh thành đã nuôi mình khôn lớn.
Sau khi về ở
với chồng, quyền chủ động và quyết định trong hôn nhân của phụ nữ người Nùng vẫn
được tôn trọng và đề cao thông qua hình thức “phạt vạ”. Một người đàn ông Nùng
nào đó, nếu “chán” vợ, muốn ruồng rẫy vợ cũng không hề đơn giản. Nếu anh ta muốn
bỏ vợ mình thì phải “nộp vạ” hay còn gọi là bị xử phạt vì đã “làm mất danh dự”
của vợ.
Mọi lễ vật
cho “phạt vạ” được người vợ tự quyết. Nếu người vợ còn yêu chồng, còn muốn ở với
người chồng thì người ta sẽ “tâng” lễ vật lên cao ngất ngưởng, để người chồng
không có khả năng trả được nữa đành phải ở cùng vợ. Nếu người vợ không muốn ở với
người chồng nữa thì lễ vật “phạt vạ” sẽ được người vợ đòi ít đi, anh chồng sẽ
có cớ “nhanh chóng rút khỏi nhà” còn người vợ sẽ có sự giải thoát trong hôn
nhân gia đình.
Người đàn
ông Nùng phải thực hiện sự phạt vạ này một cách nghiệt ngã. Nếu anh ta không thực
hiện sẽ không thể đi tìm hiểu và lấy thêm ai nữa. Không cần văn bản giấy tờ,
không cần thông báo nhưng đâu đâu cũng biết, thế mới thấy sức lan tỏa của hình
thức “phạt vạ” này.
Cũng như một
số dân tộc thiểu số khác, người Nùng cũng có tập tục làm ma để chia của cho người
đã chết, vì người ta cho rằng người chết sẽ có một cuộc sống mới nơi đất khác
và cũng cần phải có tài sản, tư liệu sản xuất.
Nếu người sống
không làm ma được thì phải nợ. Việc làm ma chia của này với đối tượng là phụ nữ,
vợ và con gái càng phải cần kíp và thực hiện sớm hơn về mặt thời gian.
Cái này đã
ăn sâu và trở thành tiềm thức. Ở Tổ 9, Thị trấn Việt Lâm tôi có quen một ông
tên ông Thèn Xuân Lin. Ông đi từ Đản Ván huyện Hoàng Su Phì xuống Tổ 9 định cư
từ hồi chiến tranh biên giới xảy ra.
Ông có 5
con, 2 trai 3 gái, con trai con gái đến tuổi lấy vợ, lấy chồng nên ông ở một
mình. Ông sống đến tuổi 90, mọi phản xạ bản năng đều quên hết, ông chỉ sống vào
tiền trợ cấp nhưng có một thứ “ông không thể quên được” đó là ông chưa có tiền
để làm ma chia của cho vợ.
Đồng nghĩa
như vậy là ông còn “nợ” với vợ và phải coi người vợ đã quá cố của mình như vẫn
còn sống. Bữa cơm nào cũng vậy, khi đến bữa ăn là ông phải sắp ra mâm 2 chiếc
bát, 1 chiếc cho mình và 1 chiếc cho người vợ quá cố. Ông cũng phải xới cơm,
cũng phải mời vợ và thỉnh thoảng vẫn phải gắp thức ăn vào chiếc bát để tiếp cho
người vợ đã quá cố của mình. Ông không quên và làm việc này đến tận khi nhắm mắt
xuôi tay.
Trong cộng đồng
54 dân tộc anh em người Việt, có những tập tục lạc hậu cần loại bỏ nhưng cũng
có những tập tục chứa đựng những nét văn hóa. Trong đó nó chứa đựng những quy
chuẩn về một giá trị đạo đức như “Tập tục trọng vợ” của người Nùng khu vực Cực
Bắc Hà Giang mà tôi đã từng biết.
Tổng hợp
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét