Người
Êđê có tập tục sống theo từng buôn. Mỗi buôn có khoảng từ 140 - 150 ngôi nhà
dài với khoảng trên 500 - 600 người, bao gồm các thành viên của một dòng họ hoặc
vài dòng họ hợp thành, buôn thường mang tên người chủ bến nước (pô pin êa), chủ
yếu là tên người phụ nữ (mẫu hệ). Buôn có bến nước, nhà ở của cộng đồng, rừng
thiêng, đất định cư, đất canh tác, khu nhà mồ (nghĩa địa) … Buôn của người Êđê
được quản lý theo luật tục của cộng đồng. Luật tục Êđê có trên 236 điều, bao gồm
các nội dung về quan hệ cộng đồng, quan hệ của chủ buôn với dân buôn, giữa cha
mẹ với con cái, về sở hữu tài sản, sở hữu đất đai, rẫy nương, nguồn nước, giữ
gìn an ninh trật tự cộng đồng … Trong đó, những điều luật tục được cộng đồng
quan tâm hơn cả là : Bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước.
I.
Các nghi lễ, lễ hội vòng đời người
Các
dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, có một nền văn hoá
nghi lễ - lễ hội vô cùng độc đáo. Nó đi suốt vòng đời của mỗi con người, từ lúc
còn nằm trong bụng mẹ đến khi sinh ra, trưởng thành rồi trở về với thế giới tổ
tiên ông bà. Đối với dân tộc Êđê có các nghi lễ như sau: Lễ cúng khi người mẹ
mang thai, lễ cúng trước khi sinh, lễ cúng đặt tên thổi tai, lễ cúng đầy tháng,
lễ cúng đầy một mùa rẫy, lễ cúng đầy ba mùa rẫy, lễ cúng đầy bảy mùa rẫy, lễ
cúng tròn 15 mùa rẫy, lễ cúng trưởng thành (tròn 17 mùa rẫy), lễ hỏi chồng, lễ
cưới chồng, lễ cúng sức khoẻ cho đôi vợ chồng trẻ, lễ cúng sức khoẻ hàng năm của
mỗi gia đình, lễ cúng sức khoẻ cho chủ nhà khi bước vào tuổi 50, 60, 70, 80… lễ
cúng vào nhà mới, lễ rước kpan, lễ kết nghĩa anh em, lễ tiếp khách, lễ tang, lễ
bỏ mả…
1.
Lễ cầu sinh đẻ:
Lễ
được tổ chức khi người phụ nữ có mang ba tháng. Với nghi lễ này người phụ nữ
mang thai và gia đình tin tưởng rằng đứa trẻ sinh ra sẽ khoẻ mạnh thông minh
hơn người.
2. Lễ đặt tên:
Được
thực hiện sau khi cháu bé ra đời một ngày. Lễ có hai bước. Bước thứ nhất là
cúng Yàng Bah Huê, thần che chở trẻ sơ sinh và con người. Tiếp theo là lễ thổi
tai (Băng Kiga) cho trẻ.
Lễ
cúng đặt tên là một nghi lễ quan trọng trong hệ thống nghi lễ vòng đời người.
Nó là niềm hy vọng của gia đình đứa bé về tương lại tốt đẹp của con mình.
3. Lễ trưởng thành:
Là
một trong những lễ quan trọng trong các nghi lễ vòng đời người của dân tộc Êđê.
Khi
cháu bé mới sinh, trong lễ đặt tên, dăm dei (người cậu) đeo vào tay cho cháu một
cái vòng đồng và cúng cho cháu một bộ áo khố, một đôi dép da trâu, một vỏ quả bầu
khô đựng nước, một chiếc khiên, một thanh đao. Tất cả được bỏ trong một chiếc
gùi và người mẹ cất giữ cẩn thận.
Cháu
bé phải trải qua bảy lần cúng sức khoẻ, mỗi lần cúng, người ta đánh dấu vào chiếc
vòng một khấc. Khi vòng đủ bảy khấc thì đứa bé đến tuổi trưởng thành (khoảng 17
- 18 tuổi).
Sau
lễ trưởng thành, chàng trai được tự do đi làm ăn xa, hoặc tìm bạn đời và kết
nghĩa anh em với người khác buôn.
4.
Lễ hỏi chồng:
Là
lễ mở đầu trong bốn lễ cưới. Các cô gái Êđê được tự do lựa chọn người yêu. Nếu
cô gái tìm được người vừa ý thì báo với cha mẹ để chuẩn bị làm lễ hỏi. Nhà gái
chuẩn bị một lễ hỏi gồm một ché rượu, một vòng đồng để cúng thần. Sau đó gia
đình cô gái cùng ông mối đến nhà trai. Nếu nhà trai ở buôn khác thì những người
hỏi chồng mang thêm gói cơm nếp. Đến nhà trai ông cậu cầm chiếc vòng đồng hỏi ý
kiến chàng trai lần cuối. Chàng trai trả lời ưng thuận. Họ làm lễ trao vòng. Cô
gái và chàng trai cùng nắm tay vào chiếc vòng đồng. Đó là lời giao ước hôn thú.
Từ đây chàng trai, cô gái trở thành bạn đời, hai gia đình thành thông gia. Mỗi
bên gia đình cử ra người đỡ đầu (miết ava). Miết ava là người thay mặt hai gia
đình khuyên răn, bảo ban cô gái, chàng trai, thu xếp mọi sự bất hoà giữa hai
người này hoặc giữa hai gia đình; đồng thời định ngày làm các lễ tiếp theo và lễ
cưới chính thức cho đôi bạn trẻ.
5.
Lễ uống rượu cần mừng năm mới:
Được
tổ chức hàng năm, vào cuối mùa rẫy, khoảng từ tháng 12 đến tháng 1 dương lịch.
Lễ được tổ chức tại nhà chủ buôn (khoa buôn) có sự tham gia của cả buôn.
Đến
ngày lễ, người ta buộc vào gốc blang kbao một con trâu đực. Già trẻ, trai, gái
mặc quần áo đẹp tụ tập quanh cây nêu và con trâu. Chiêng trống nổi lên. Ba
chàng trai to khoẻ, được già làng chọn trước, mặc khố, ở trần, một người cầm
dao, hai người cầm cây lao dài múa trước mặt con trâu và đi vòng quanh con trâu
(ngược kim đồng hồ) bảy vòng. Bất thần chàng trai cầm dao chém vào khuỷu chân
trái sau của trâu. Chàng lại lựa thời cơ chém vào khuỷu chân phải sau của trâu.
Con vật bị thương nặng lồng lộn. Một trong hai chàng trai cầm cây lao, nhanh
như ngọn gió nhằm đúng vị trí, đâm vào tim con trâu. Chàng trai thứ hai cầm lao
đâm tiếp. Con trâu quỵ xuống, mọi người
hò reo, mừng vui.
Sau
đó già làng cầm cần rượu hít một hơi dài rồi trao cần cho mọi người (theo thứ tự
nữ trước, nam sau). Chiêng trống rộn ràng. Mọi người vừa uống rượu vừa ăn thịt
trâu nướng. Cứ thế suốt đêm, già trẻ, trai gái ăn uống, nhảy múa, ca hát theo
nhịp chiêng trống xung quanh bếp lửa, mừng năm mới.
6.
Lễ lên nhà mới:
Gồm
nhiều nghi lễ: Trước hết là nghi lễ nổi lửa. Tất cả các bếp trong nhà đều đốt lửa.
Trong một nhà sàn Êđê thường có nhiều bếp: bếp chủ, bếp khách, bếp các con.
Sau
đó là lễ cúng tổ tiên ông bà, mời các vị về dự lễ cúng nhà mới, cầu mong những
người đã khuất chứng giám và phù hộ cho con cháu.
Sau
lễ cúng yàng nhà là lễ cúng sức khoẻ cho chủ nhà và các con cháu trong gia đình
của chủ nhà mới với ý nghĩa cầu cho chủ nhà có nhà mới sống ấm êm, hạnh phúc và
gắn bó với cộng đồng.
7. Lễ bỏ mả:
Lễ
bỏ mả là một lễ lớn trong hệ thống nghi lễ vòng đời của dân tộc Êđê nói chung
và nhóm dân tộc Êđê Mdhur nói riêng. Theo quan niệm của người Êđê: Sau ba năm
chôn cất người quá cố thì gia đình, dòng họ lại tổ chức lễ bỏ mả để tiễn đưa
linh hồn người chết về với tổ tiên ông bà. Lễ này được tổ chức sau mùa rẫy, khoảng
từ tháng 12 đến tháng 3 dương lịch. Lễ bỏ mả được tổ chức trong từng gia đình
riêng lẻ và có sự tham gia của cả dòng họ và cả cộng đồng buôn làng.
II.
Các Lễ hội nông nghiệp.
Hệ
thống lễ hội nông nghiệp của đồng bào Êđê, cũng như các dân tộc bản địa Tây
nguyên được tiến hành suốt cả một mùa rẫy (từ tháng 3 cho đến hết tháng 12 hàng
năm), nhằm thể hiện phong tục, tập quán trong canh tác nương rẫy, tạ ơn các vị
thần linh của núi rừng và cầu mong một vụ mùa bội thu, nhà nhà no đủ, buôn làng
bình yên, giàu đẹp.
Người
Êđê có các nghi lễ nông nghiệp như: Lễ tìm đất, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ
gieo hạt, lễ vun gốc, lễ cầu no đủ, lễ cúng cầu mưa, lễ cúng thần gió, lễ cúng
cầu lúa trổ bông nhiều hạt, lễ cúng trước khi thu hoạch, lễ ăn cơm mới, lễ mừng
được mùa, lễ cúng bến nước, lễ cúng hồn lúa, lễ cúng kho lúa, lễ cúng nồi cơm
và bầu đựng gạo…
1. Lễ cầu mưa:
Lễ
cầu mưa (kăm mah) và lễ cầu mùa (kăm buh) là một nghi lễ rất quan trọng của người
Êđê: Đánh dấu thời điểm một mùa rẫy mới đã bắt đầu, với mong ước cầu cho mưa
thuận, gió hòa, rẫy nương tươi tốt; thóc lúa đầy kho. Chính vì những lẽ đó mà mọi
gia đình trong buôn chuẩn bị rất kỹ trước khi tiến hành lễ cúng.
Khi
lễ cúng đã khép lại, chủ buôn mời tất cả mọi người về nhà mình ăn thịt heo, uống
rượu mừng một mùa rẫy mới.
2. Lễ mừng trận mưa đầu mùa:
Gồm
lễ toàn buôn và lễ riêng từng gia đình. Trong gia đình, lễ vật bày trên một cái
nia đặt ở giữa nhà, cạnh bếp khách. Trong nia còn có ống đựng lúa, gậy chọc lỗ,
các gói nhỏ hạt giống. Lễ này, chủ yếu tạ ơn thần trời đã cho mưa để lúa bắp
tươi tốt, nhà nha no ấm.
3. Lễ cúng bến nước:
Được
tiến hành hàng năm, nhằm cầu thần nước, tạ ơn thần nước và kết hợp sửa sang bến
nước. Lễ được làm trong hai ngày.
Ngày
thứ nhất: Một nhóm sửa lại đường lên xuống bến nước, sửa lại cầu tắm giặt, thay
ống dẫn nước và máy nước.
Ngày
thứ hai: Sáng sớm chủ bến nước sai con cháu làm ba con heo (một con cúng tổ
tiên ông bà, một con cúng thần bến nước, một con cúng sức khỏe cho chủ bến nước);
đồng thời buộc 7 ché rượu tại gian Gar (gian khách của nhà dài) để làm lễ cúng
các vị thần linh. Sau đó, mọi người mang lễ mời thần linh, ông bà về dự lễ cúng
bến nước.
Đoàn
người đi ra bến nước để làm lễ cúng, gồm: Thầy cúng, chủ bến nước, hai người cầm
khiên đao, ba người mang lễ vật. Đến bến nước thầy cúng đặt lễ cúng ở nơi bằng
phẳng gần bến nước. Sau đó, thầy cúng đọc lời khấn thần linh. Khấn xong, thầy
cúng cầm bình rượu có pha tiết heo đi từng máy nước đổ lên ống máy nước. Sau đó
thầy cúng cùng đoàn tuỳ tùng đi lên cổng bến nước làm lễ cúng thần giữ bến nước
rồi trở về nhà chủ bến nước làm lễ cúng thần đất. Cúng xong mọi người lên nhà dài
làm lễ cúng sức khoẻ cho chủ bến nước và cúng sức khoẻ cho thầy cúng, đội
chiêng và mọi người trong buôn. Sau đó, mọi người cùng ăn uống, hát dân ca, thổi
đinh năm, đing tuh… cho đến khuya mới chịu ra về.
4. Lễ tuốt lúa:
Được
tiến hành vào cuối tháng 10, khi lúa chín rộ. Khi tuốt lúa phải tuốt lúa theo
hướng DDông, kiêng tuốt lúa theo hướng Tây, sợ lúa theo mặt trời đi mất.
5. Lễ ăn cơm mới:
Được
tiến hành vào cuối mùa rẫy vào khoảng tháng 11 dương lịch. Lễ cúng được tổ chức
theo gia đình, tại rẫy và tại nhà, kéo dài ba ngày.
Gạo
cúng cơm mới phải là gạo thu hoạch từ khoảnh rẫy thiêng của rẫy lúa, được chăm
sóc đặc biệt. Giống chọn cẩn thận, chỉ có chủ nhà (người phụ nữ) được chăm sóc
cẩn thận, khi tuốt phải dùng tay để làm cho cây lúa khỏi bị đau, thần lúa sẽ ở
lại với chủ rẫy
Tại
khoảnh rẫy thiêng, chủ rẫy cắm một cây nêu treo hình nộm tượng trưng thần giữ rẫy.
Tiếp
theo là diễn tấu nhạc cụ tre nứa, hát ay ray, hát kưưt (dân ca), nhảy múa, ăn uống
cộng cảm. Chiêng trống diễn tấu điệu vui.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét