Trung thu là
giữa mùa thu, Tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu
tức là vào rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch.
Tết Trung
Thu
Theo phong tục
người Việt chúng ta, Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mùa thu, tức là hôm rằm
tháng tám ta. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh trái ra
sân cúng mặt trăng.
Nhân dịp tết
này, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em thì rước
đèn, đi xem múa lân, ca hát các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng
các thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức một
mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm Trung
Thu này được gọi là “phá cỗ.”
Tết Trung
Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc
tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du
nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan
Ánh trong quyển “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ” cho rằng: Theo sách cổ
thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn
Minh.
Năm ấy vào
đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài
thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như
tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu
chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi
cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà
vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu trông trăng
nên còn gọi là Tết Trông Trăng.
Nguồn Gốc Tết
Trung Thu
Người Việt
ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục
của người Tàu. Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo
chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất
tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức
cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có
phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua
hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu
cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong
giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua
mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng
cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y
và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc
ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn
cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc
tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của
dân gian.
Cũng có người
cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích
ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật
của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp
nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong
ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.
Người Hoa và
người Việt đều làm bánh trung thu để cúng, ăn, biếu thân bằng quyến thuộc, và
đãi khách. Điểm chung kế tiếp là người Hoa và người Việt đều tổ chức rước đèn
trong đêm trung thu.
Ý Nghĩa Tết
Trung Thu
Tết Trung
Thu của người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với Tết Trung Thu của người
Trung Hoa. Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung
thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con
rước đèn.
Cỗ mừng
trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây
là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ đối với mình một cách
cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khắng khít thêm.
Cũng trong dịp
này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ,
thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ
lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Người Hoa
hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức
múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm
lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này.
Thời xưa,
người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống
quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình.” Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống
quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát
đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những
bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.
Cúng trăng
(Tế nguyệt)
Trong đêm 15
tháng 8 âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu.
Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi
lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức
ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Ngắm trăng
(Thưởng nguyệt)
Còn thưởng
trăng vốn bắt nguồn từ việc cúng trăng. Đến đời Đường, thú ngắm trăng dịp Trung
thu trở nên thịnh hành, thể hiện nhiều trong thơ ca thời này. Nhưng đến đời Tống,
lễ hội ngắm trăng mới chính thức trở thành Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình mặt
trăng (bánh nướng, bánh dẻo) trong dịp Tết Trung thu cũng bắt đầu từ thời này.
Tết Trung
Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn
muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là
bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó
đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Trẻ em đón tết
có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống… sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi
từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ.
Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo
nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người
lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
Thi cỗ và
thi đèn
Trong ngày Tết
Trung Thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy
múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh
của các bà các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi
đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông
tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi
chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya.
Hát Trống
quân
Tết Trung
Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với
nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng
rỗng, bật ra những tiếng “thình thùng thình” làm nhịp cho câu hát. Những câu
hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng
khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi
gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong
những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa
để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo
thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền
thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa
không có phong tục này.
Múa Sư tử
(múa lân)
Vào dịp Tết
Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân
trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân
trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa
không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám
múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ
của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một
người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt,
đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân… Ðám múa Lân đi trước,
người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có
treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì
thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không
có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền.
Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người
ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng
thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có
thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.
Người Trung Hoa không có phong tục này.
Tết Trung
Thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh,
và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần Tết Trung Thu trở thành Tết
Trẻ Em hay Tết Nhi Đồng, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó. Trẻ em được người
lớn chú ý săn sóc như các hội đoàn người Việt hải ngoại đã và đang làm. Các em
có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất là
có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị quở mắng là “ăn kẹo hư răng.”
Trong dịp Tết
Trung Thu, trẻ em có dịp được học bài hát “Rước Đèn Tháng Tám” một cách thích
thú: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui
sướng với đèn trong tay. Em múa ca trong ánh trăng rằm. Đèn kéo quân với đèn cá
trắm, đèn thiên nga với đèn bươm bướm. Em rước đèn này đến cung trăng. Đèn xanh
lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng. Trông ánh đèn rực rỡ muôn
màu.”
Tết Trung
Thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của săn sóc, của báo hiếu, của
biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương yêu. Cần cố gắng duy trì
và phát triển ý nghĩa cao đẹp này.
Tổng hợp
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét