Người Dao thật
thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Bản chất quý báu đó vẫn là nét chủ đạo,
đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Trong cuộc sống thường nhật, họ ít nói nhưng
không thù ghét ai. Do sống phân tán, tiếp giáp với nhiều dân tộc nên họ cũng dễ
hòa đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiếp thu cái mới.
Ở Việt Nam,
người Dao có khoảng 45 vạn người, đứng thứ 9 so với các dân tộc trong nước. Cuộc
sống của họ do ly tán, bất ổn định, chủ yếu dựa vào rừng núi cao... nên gặp nhiều
khó khăn. Người Dao thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Bản chất quý
báu đó vẫn là nét chủ đạo, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Trong cuộc sống
thường nhật, họ ít nói nhưng không thù ghét ai. Do sống phân tán, tiếp giáp với
nhiều dân tộc nên họ cũng dễ hòa đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiếp
thu cái mới.
Về nguồn sống
cơ bản, đồng bào Dao chủ yếu dựa vào các sản phẩm nông nghiệp mang tính tự cung
tự cấp như lúa, ngô, khoai, sắn; thức ăn chủ yếu là các loại rau, đậu, củ, quả
tự trồng. Công cụ sản xuất còn thô sơ, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Người Dao
có nghề làm giấy bản, nhuộm màu đỏ thẫm, vàng chanh hoặc để thô được đem đi bán
khắp mọi nơi. Dân tộc Dao có nhiều bài thuốc nam (thuốc lá) bí truyền chữa được
nhiều bệnh nan y bằng kinh nghiệm bắt mạch, cắt thuốc theo y pháp phương Đông.
Về cấu trúc
nhà ở của người Dao đơn giản nhưng với sự tổ hợp ba phần toát lên sự kín đáo, tế
nhị của người Á Đông. Họ có ba loại nhà: nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất;
nhà ở bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn. Người Dao lấy địa thế đồi núi để dựng
nhà, thường là chỗ bằng phẳng. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng
là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu
rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu
nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường
có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng
nhà thì cũng như các dân tộc khác.
Tín ngưỡng của
người Dao là tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu ấn của Nho giáo và
Đạo giáo chính thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ trong cách phân định
tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Đồng thời, Đạo giáo ảnh
hưởng bao trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên (Bàn Hồ – Bàn
Vương), được thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp sắc cho người làm thầy
cúng... Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể xác, còn linh hồn mãi
mãi bất diệt “quay về với tiên tổ”.
Hôn nhân
nam, nữ tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn theo chế độ một vợ một chồng, người
cùng họ không được lấy nhau. Nam giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở
luôn nhà vợ (nếu ở luôn nhà vợ thì phải đổi họ bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc
trắng để định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ
là của đôi vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ,
có hoa văn; cổ và tay đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu, có cả thầy
cúng, và thổi kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải
qua nhà tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu
phải “rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự chứng
kiến của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay đoạn tuyệt
với con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”.
Sau khi vợ
chồng lấy nhau, khi sinh con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng ngủ của mình. Ba
ngày đầu, các cửa ra vào đều phải cắm lá kiêng không cho người lạ vào nhà. Gia
đình dân tộc Dao tồn tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người con gái không có
tên trong chúc thư, không được thừa kế tài sản của gia đình.
Về trang phục,
so với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản
sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím
than hoặc để trắng. Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước
ngực; Dao quần chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là
yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn
tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ...
Dân tộc Dao
có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện qua nhiều phong tục,
nhiều điệu múa đẹp, nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ tích, thần thoại, ngụ
ngôn, ca dao, thành ngữ, chiêm tinh, tướng số, câu đố... Nhưng cũng giống các
dân tộc thiểu số khác chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền khẩu, vốn này ngày nay
cũng bị mai một, thất truyền với những lý do khách quan cũng như chủ quan.
Từ khi có Đảng,
cũng như các dân tộc khác, đồng bào Dao luôn đoàn kết, định canh định cư, phát
triển kinh tế, góp phần xây dựng quê hương và từng bước khôi phục, bảo tồn,
phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Tổng hợp
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét