Hằng
năm, nhằm ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba, nhân dân từ nhiều nơi tới đây để tưởng
niệm các Vua Hùng đã có công dựng nước. Nhưng không phải ai cũng biết rõ những
phong tục xung quanh việc thờ cúng các Vua Hùng - những hoạt động văn hóa dân
gian mà người xưa đã tạo dựng để minh họa thêm cho tín ngưỡng dân tộc thuộc thời
đại các vua Hùng.
Đền Lạn và cỗ thịt gà
Các
Vua Hùng hay đi săn ở vùng chân núi. Sau mỗi lần săn về, Vua Hùng ngồi nghỉ ở đồi
Lạn (nay thuộc thôn Thọ Khảo, xã Phù Ninh). Tùy tòng đem chim ra mổ, lấy lòng
quấn với củ kiệu rồi nướng cho mọi người ăn, còn chim thì để cả con mang về. Đời
sau, dân Thọ Khảo lập đền thờ Vua Hùng trên đồi Lạn, hằng năm tổ chức cúng tế.
Lễ vật là gà để cả con (tượng trưng cho chim săn được) và bộ lòng gà quấn củ kiệu
nướng chín. Lễ xong, người ta chia đều cho dân đinh.
Phong
tục này có thể nhằm nhắc lại chuyện săn bắt của các Vua Hùng, mà cũng có thể là
ánh hồi quang của lối săn bắn tập thể thời công xã nguyên thủy, khi đó muông
thú săn được đem chia đều cho mọi thành viên của bộ lạc.
Làng Cổ Tích với cỗ xôi
nhiều màu
Hằng
năm, đến ngày Giỗ Tổ, dân làng Cổ Tích thường đem cúng bánh dày và xôi. Bánh
dày liên quan đến câu chuyện về Lang Liêu mà nhiều người đã biết. Còn xôi thì
thật là đặc biệt, ngoài xôi trắng ra còn có xôi được nhuộm đỏ và màu tím. Việc
nhuộm màu xôi nhằm nhắc lại những giống lúa khác nhau đã được trồng từ thời
Hùng Vương. Đó chính là tín ngưỡng hiến tế bằng những sản phẩm lao động, thể hiện
sáng tạo của tổ tiên, cũng là tín ngưỡng phồn thực cầu sinh sôi nảy nở, phát
triển khôn cùng.
Làng Trẹo và tục rước
chúa ông, chúa bà
Làng
Trẹo (tên chữ là Triệu Phú) có tục rước rất vui, bắt nguồn từ sự tích Tản Viên
đón Ngọc Hoa. Số là sau khi thắng Thủy Tinh trong việc dẫn nạp đồ lễ cưới, Sơn
Tinh- Tản Viên được đón mị nương Ngọc Hoa về núi Tản (thời đó, con trai vua gọi
là quan lang, con gái vua gọi là mị nương). Nhưng vì Ngọc Hoa nhớ cha mẹ nên chỉ
mới đi đến làng Trẹo đã không chịu đi nữa, nàng ngồi xuống một phiến đá. Sơn
Tinh phải vào làng nhờ dân giúp đỡ. Thế là mọi người kéo ra đón chào Ngọc Hoa.
Họ bày các trò vui để Ngọc Hoa nguôi nỗi nhớ nhà. Người thì múa nhảy, người thì
hát hò. Cuối cùng, Ngọc Hoa bằng lòng lên kiệu và đám rước lại lên đường.
Cho
đến năm 1945, đám rước chúa ông, chúa bà diễn ra như sau: đi đầu là những người
giơ cao các bó lúa, rồi tới những người cầm cày, bừa, dao, cuốc. Vừa đi, họ vừa
lúc lắc nông cụ, vừa nói bông lơn. Cuối đám rước là những người đi săn, đánh cá
trên vai lỉnh kỉnh cung tên, lưới, đòng... Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa nhận ra
rằng bên cạnh câu chuyện về một đám cưới giữa hai gia đình tù trưởng thuộc hai
bộ lạc khác nhau, tục rước này còn có thể là ngày hội “trình nghề” của cư dân
nông nghiệp thời cổ sơ vốn chưa có sự tách biệt giữa các nghề trồng trọt, săn bắt,
chài lưới.
Tóm
lại, điểm qua một số phong tục quanh lễ hội khu vực Đền Hùng, ta thấy khu vực
này đúng là dải đất cổ còn bảo lưu nhiều lớp tín ngưỡng nguyên thủy, xứng đáng
được coi là cái nôi của toàn dân tộc Việt.
Theo HNM
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét