Hai
chị em Trương thái phi và Nguyễn phu nhân khi được vinh hiển liền nghĩ đến quê
hương. Gốc phát tích từ vùng Dâu, nơi có ngôi chùa thờ Tứ Pháp linh thiêng nhất
nước. Thế là hai bà mua ruộng vùng Nghĩa Trụ cúng chùa hàng trăm mẫu
Chùa
Dâu là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và là trung tâm hệ thờ Tứ Pháp cầu mưa. Trong
chùa có tượng Pháp Vân, phật Thạch Quang hiện thân Tứ Pháp vốn là đứa trẻ sơ sinh
con phật mẫu Man Nương, tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ... Ngoài ra còn một số tượng Hậu
Phật như tượng Tìny Đà-lưu-chi, Mạc Đĩnh Chi, bà Trắng, bà Đỏ...
Nhân
vật Mạc Đĩnh Chi “Lưỡng quốc Trạng nguyên” có truyền thuyết xây chùa trăm gian,
tháp chín tầng, cầu chín nhịp chuộc tội cho mẹ dưới âm phủ. Hai nhân vật bà Trắng
bà Đỏ vốn gốc gác người vùng Dâu thì cũng có truyền thuyết riêng. Sau đây là một
số truyền thuyết liên quan đến hai nhân vật này.
1.
Truyền thuyết Ghênh đẻ Khe nuôi.
Chúa
Chiêu tổ Khang vương Trịnh Căn ở ngôi từ 1682 đến 1709 lập con trưởng Lương Mục
vương Trịnh Vịnh làm Thế tử. Không may Thế tử mất sớm, chúa lập cháu trưởng Tấn
Quang vương Trịnh Bính kế ngôi thái tử. Một lần Thế tử dẫn quân đi Hải Đông,
lúc về qua làng Ghênh thấy người con gái vừa cắt cỏ vừa hát: “Tay cầm bán nguyệt
xênh xang/Hai hàng cây cỏ lai hàng tay ta”. Thấy người con gái trẻ đẹp, lao động
nhanh nhẹn Thế tử đem lòng yêu mến liền kén vào cung làm phi. Ít lâu sau phi tử
ấy sinh con trai, đó là chúa Trịnh Cương sau này.
Không
may bà phi Trương Thị Ngọc Chử bị mất sữa, Trịnh Cương khóc ngằn ngặt suốt ngày
đêm, ai bế dỗ cũng không được khiến phủ chúa cũng mất ăn mất ngủ theo. Khi ấy
bà phi có cô em con dì ruột là Nguyễn Thị Cảo lấy chồng về làng Khe cũng vừa
sinh con nên mời vào cung nuôi con cùng. Bà Cảo thương chị thương cháu nhận lời.
Ai dè bà Cảo vừa đón cháu lên tay thì Trịnh Cương đã nín khóc đòi bú liền. Từ
đó bà Cảo ở lại trong cung nuôi con nuôi cháu.
Năm
Trịnh Cương 17 tuổi thì người cha qua đời. Chúa Chiêu tổ Khang vương lập chắt
làm thế tử, được mở phủ Lý Quốc riêng. Mấy năm sau chúa Chiêu tổ Khang vương
qua đời, thế tử nối ngôi là chúa Hi tổ Nhân vương. Chúa phong mẹ làm thái phi,
tục gọi là “bà chúa Ghênh”. Bà Cảo được phong là phu nhân, tục gọi là “bà vú
Khe”. Vì thế dân gian lưu truyền câu phương ngôn “Ghênh đẻ Khe nuôi” là từ tích
này.
Giai
đoạn chúa Trịnh Cương nắm quyền (1709 - 1729) được coi là thịnh trị nhất của thời
Hậu Lê.
2.
Truyền thuyết Đường vào phủ chúa
Thời
Lê có gia đình phú hộ làng Tướng (nay là Thanh Tương - Thuận Thành) đón thầy địa
lí về tìm đất quý đặt mộ mong con cháu vinh hiển. Thầy tìm được đất liền bẻ
cành cây đánh dấu, dặn ba ngày sau cành lá vẫn tươi thì táng mộ vào sẽ phát đến
công khanh. Không ngờ có người thợ cày ngồi nghỉ giải lao ở bụi cây gần đó nghe
được. Chờ mọi người đi khỏi người thợ cày nhổ cành cây cắm ra chỗ khác. Ba ngày
sau người phú hộ ra xem cành cây thấy khô héo thì không để ý huyệt đất đó nữa.
Người thợ cày bí mật táng hài cốt bố vào nơi thầy địa lí cắm cành cây. Từ đó
gia đình này làm ăn khấm khá dần.
Đặc
biệt, nhà này sinh được một gái tên Nguyễn Thị Cảo xinh đẹp, hát hay và đã lấy
được chồng là cấm quân bảo vệ phủ chúa, tên Nguyễn Gia Đa ở làng Khe. Ít lâu
sau bà sinh con trai, tên Nguyễn Gia Châu, cùng thời điểm người chị con nhà già
là Thái tử phi Trương Thị Ngọc Chử sinh Thế tử Trịnh Cương nhưng bị mất sữa nên
đã được mời vào phủ chúa nuôi cùng. Khi Thế tử lên ngôi chúa đã phong vú nuôi
là phu nhân, phong Nguyễn Gia Đa là Bỉnh quận công. Đặc biệt người em Nguyễn
Gia Châu trở thành tướng tài thân tín, được phong Siêu quận công, nhiều năm trấn
thủ đất phên giậu Nghệ An bình yên, tước lộc như chúa lưu đồn, lúc mất được
phong Ý Túc đại vương cho dân thờ. Con cháu Siêu quận công nhiều người được
phong quận công và hầu tước, trong đó có cháu nội Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều
là danh nhân văn hoá. Đúng là huyệt đất quý phát đến công khanh.
Chuyện
bà Ngọc Chử vào cung cũng liên quan đến việc đặt mộ. Bấy giờ họ Trương nhà
nghèo, bán nước ven đường kiếm sống. Một hôm có vị đạo sĩ vào quán được họ
Trương chào mời rất cung kính. Đạo sĩ cảm ơn lòng tốt bằng cách chỉ cho huyệt đất
quý. Xong việc đạo sĩ chỉ bảo họ Lã ở đầu ngõ Hàng Nghiên. Họ Trương tìm đến tạ
lễ nhưng không có ai họ Lã, chỉ có miếu thờ Thuần Dương tổ sư, tên hiệu của Lã
Đồng Tân, mới biết nhà được tiên ông ban phúc. Sau đó họ Trương sinh ra Ngọc Chử
rồi duyên may gặp được Tấn Quang vương mê người mê nết và giọng hát hay được
kén làm phi.
3.
Truyền thuyết bà Đỏ bà Trắng chùa Dâu
Hai
chị em Trương thái phi và Nguyễn phu nhân khi được vinh hiển liền nghĩ đến quê
hương. Gốc phát tích từ vùng Dâu, nơi có ngôi chùa thờ Tứ Pháp linh thiêng nhất
nước. Thế là hai bà mua ruộng vùng Nghĩa Trụ cúng chùa hàng trăm mẫu. Hai bà được
dân bầu Hậu chùa, có tượng thờ. Tượng Trương thái phi sơn màu trắng điệp gợi da
thịt nõn nà quý phái. Cổ tay chạm vòng cườm dấu hiệu hoàng tộc. Tượng Nguyễn
phu nhân vẻ phúc hậu, sơn màu nâu đỏ, một quan niệm dân gian biểu hiện tốt sữa.
Dân gian quen gọi là bà Trắng bà Đỏ. Trong hội Dâu tượng hai bà được rước ngay
sau tượng Pháp Vân, bà cả của Tứ Pháp. Có câu ca:
Tượng
cụ Hậu rước sau Tứ Pháp
Dân
kéo theo để đáp ơn người.
Tổng hợp
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét