Trẻ em rất
mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn
ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,… rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người
ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát
vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết
Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám
(713-755).
Sách xưa
chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường
ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu
xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa
tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa
mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa
hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm
nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong
đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ
cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa
Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn
hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt
chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần
phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi
đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết
Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử
Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy
trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ
búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày
bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông
chen như hội.
Ngoài các loại
đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ.
Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới
tuổi lấy chồng.
Ở Việt Nam,
ngày tết Trung Thu được ông Phan Kế Bính diễn tả trong “VN Phong tục”: “ban
ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt
trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh,
đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ
hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp”.
-o0o-
Sự tích chị
Hằng Nga:
Tương truyền,
vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất
nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện
này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi
Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập
nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều
chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm
thuật bất chính.
Không lâu
sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học
săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng
trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu
Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương
nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống
thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ
rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất
thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau,
Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ
lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm
bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga
biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở
hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy
người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng
Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi
trở thành tiên.
Tối hôm đó,
khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc
sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông
đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc.
Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó,
anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một
bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa
viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái
cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang
nhớ đến mình.
Sau khi mọi
người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương
án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó,
phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét